Lấy giáo dục hoằng dương Phật pháp. Lấy giảng giải bồi dưỡng nhân tài. Lấy từ bi lợi ích xã hội. Lấy chân thành phát triển giao lưu. Lấy chuyên tu cầu sanh Tịnh Độ.
Tinh thần Bồ tát đạo, Phật pháp Đại thừa chính là rộng tu cúng dường, rộng độ chúng sanh. Trong kinh Kim cang nói: “Tất cả chúng sinh Ta đều khiến vào Vô dư Niết Bàn mà diệt độ vậy.” Câu này nếu dùng lời hiện đại mà nói, chính là tận tâm tận lực giúp đỡ tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ. Kết quả phá mê khai ngộ tự nhiên là lìa khổ được vui. “Mê, phải giúp họ phá sạch; ngộ phải giúp họ đạt đến viên mãn.” Đây chính là thành Phật, chính là “nhập vô dư Niết Bàn mà diệt độ vậy”.
Phật giáo dạy chúng ta những gì? Chung quy lại mà nói, chính là dạy chúng ta tu tâm. Thế nào là tâm phàm phu? Thế nào là tâm Phật Bồ tát? Phải rất rõ ràng tường tận. Làm thế nào để sửa tâm phàm thành tâm Phật? Làm sao để thay đổi lối hành trì của phàm phu thành lối hành trì của Phật và Bồ tát? Nếu chúng ta tự mình không hiểu rõ đạo lý này, không thể chân thật đi làm, mà lại giả danh Phật pháp, dạy sai chúng sinh, tội lỗi này phải đọa vào địa ngục A tỳ, đây là điều mà Phật và Bồ tát không muốn nhìn thấy. Cho nên người gánh vác trọng trách giáo dục, nhất định phải chăm chỉ nỗ lực khắc phục tập khí, khó khăn của chính mình.
Phật pháp và thế gian pháp là một, không phải hai. Dùng tâm can của Phật và Bồ tát để nhập thế thì pháp thế gian chính là Phật pháp, chẳng có một pháp nào không phải là Phật pháp. Còn như dùng tâm phàm phu để thâm nhập Phật pháp thì tất cả Phật pháp đều trở thành thế gian pháp. Do đó nên biết, thế pháp và Phật pháp tuyệt nhiên không phải ở trên sự tướng mà ngay nơi tâm mỗi người, cho nên mới nói “tâm tịnh thì cõi nước tịnh”.
Phật pháp không làm hư thế gian pháp,cho nên lúc đức Thế Tôn còn tại thế, đối với nhiều tông môn giáo phái ở Ấn Độ, tuyệt nhiên Phật không hề thay đổi phương thức sinh hoạt của họ, mà chỉ sửa đổi quan niệm của họ, giúp họ từ đời sống mê tín quay về đời sống chánh tín giác ngộ. Đức Thế Tôn không thay đổi họ, chỉ là thêm vào những giải thích mới, tư tưởng mới, quan niệm mới, đây là phương pháp mà các bậc thánh chúng ta đã nói: “cao minh nhất là ở đạo trung dung”, đây mới là trí tuệ chân thật.
Đời sống giác ngộ chính là Bồ tát hạnh; hay nói cách khác, từ đời sống phàm phu đổi thành đời sống Bồ tát. Song, đời sống hoàn toàn không có thay đổi, trước đây làm nghề gì thì bây giờ vẫn làm nghề đó; khác nhau ở chỗ, ngày trước là mê, bây giờ là giác. Khi mê thì có khổ, lúc giác ngộ có vui, niềm vui này gọi là “pháp hỉ sung mãn”, điểm khác biệt chính là ở chỗ này. Hoàn toàn không phải thay đổi đời sống sinh hoạt, chức vị, nghề nghiệp của họ. Trong năm mươi ba lần tham học được nói trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta nhìn thấy những vị Bồ tát ấy, già trẻ gái trai, các ngành các nghề, họ đều giác ngộ ngay trong chính nghề nghiệp, đời sống tập tục vốn có của mình mà lìa khổ được vui, đây chính là Phật pháp.
Trong xã hội hiện đại, Phật giáo cũng đang cải cách. Thế nhưng nếu không giữ được tinh thần chân thật vốn có của Phật giáo thì nó sẽ biến chất. Vừa biến chất thì Phật giáo chân chính liền bị diệt vong, cho nên cần phải giữ được bản chất này. Bản chất chính là “thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ” được nói trong đề kinh Vô Lượng Thọ, đây là căn bản; không chỉ là căn bản của Tịnh Độ Tông mà tất cả Phật pháp Đại thừa đều được xây dựng trên nền tảng này. Tất cả các pháp môn đều phải đạt đến mục tiêu này, lìa khỏi mục tiêu này thì không phải Phật pháp.
Trong kinh điển Phật pháp có bảo tàng vô tận, chính mình phải tìm cầu và phát hiện. Bất kỳ một bộ kinh, bộ luận nào cũng đều có bảo tàng vô tận, hơn nữa tất cả kinh luận đều hỗ thông lẫn nhau, cho nên thông đạt một bộ kinh rồi thì tất cả kinh đều thông đạt. Vì sao có thể thông đạt? Vì mục tiêu của mỗi một bộ kinh đều là thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, chỉ cần bạn đạt đến thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ thì liền thông đạt tất cả kinh mà không bị chướng ngại. Một bộ kinh chưa thông thì các bộ kinh khác đều không thông, vì chưa đạt được tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, vẫn là mê hoặc điên đảo, cho nên không thông. Hiểu rõ được chân tướng sự thật này thì liền có thể thể hội Phật pháp phải chú trọng ở chân thật tu hành, mới có thể thông đạt được. Không chân thật tu hành mà chỉ công phu trên văn tự thì tuyệt đối chẳng thể thông đạt.
Trong xã hội ngày nay, có thể nói là không riêng một khu vực nào mà trên toàn thế giới đều có sự hiểu lầm rất lớn đối với Phật pháp. Hiểu lầm này sẽ chướng ngại đối với sự tu học Phật pháp, chướng ngại sự lưu thông Phật pháp, vì vậy hai quyển sách nhỏ “Nhận thức Phật giáo” và “Truyền thọ tam quy” đích thực phải lưu thông với số lượng lớn.
Ý nghĩa quan trọng nhất trong “Kinh Kim cang” chính là dạy chúng ta: Phật pháp Đại thừa là phải tu học ở ngay trong đời sống. Hay nói cách khác, chính là dạy chúng ta làm thế nào để trải qua đời sống của Phật Bồ tát. Đời sống mà Phật bồ tát trải qua là đại trí tuệ, đại giác ngộ, đời sống như vậy mới là hạnh phúc mỹ mãn thật sự.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập :
119
Hôm nay :
1538
Tháng hiện tại
: 50370
Tổng lượt truy cập : 26400474
Pháp môn Niệm Phật, vốn là bi tâm triệt đễ của Thích Ca Thế Tôn độ chúng sanh; pháp môn này tối giản tiện, tối ổn định, tối cao siêu. Nếu như pháp môn này không thể tu được, vậy thì không cần nói đến pháp khác. Chỗ tốt của pháp môn này, bậc đại học vấn càng nghiên cứu, càng cảm thấy cao thâm; người không biết một chữ, cũng có thể làm đến được. Đáng tiếc người không rõ lý, chỉ đem nó cho là việc của ông già bà lão, thật là quá đổi sai lầm. Mời xem hai vị đại thánh Văn Thù Phổ Hiền trên hội Hoa Nghiêm, đều ở trong Kinh khuyến tu; Mã Minh Long Thụ hai vị Đại Bồ Tát của An Độ, đều có trước luận hoằng dương Tịnh Độ. Cổ đức của Trung Thổ, từ Đại Sư Huệ Viễn mãi đến Đại Sư An Quang, những lịch đại tổ sư này, phần nhiều là trước tu các pháp môn khác về sau quy về Tịnh Độ. Đại Sư Loan Đàm có nhục thân Bồ Tát nổi tiếng, Đại Sư Trí Giả là người truyền đăng Phật, đều hoằng dương Tịnh Độ. Thời cận đại Đại Sư Đế Nhàn của Tông Thiên Thai, Đại Sư Thái Hư của Tông Duy Thức, Đại Sư Hoằng Nhất của Luật Tông, Hư Vân Viên Anh hai vị Đại Sư của Thiền Tông, mỗi vị đều có trước tác, cũng là hoằng dương Tịnh Độ. Các vị cư sĩ nổi tiếng Lô Sơn triều Tần, Bạch Lạc Thiên của triều Đường, Tô Đông Pha Văn Ngạn Bác của triều Tống, Viên Hoằng Đạo của triều Minh, Bàng Xích Mộc Vương Nhân Sơn .v.v của triều Thanh, đều là nhà đại học vấn, họ đều là tức tâm Tịnh Độ, đây là người người đều biết đến. Còn có rất nhiều người, nhất thời không thể nhớ ra hết, cũng không cần phải nêu ra nữa. Hạng như ta tự hỏi : trí huệ, đức năng, so với những thánh hiền trên đây, ai cao ai thấp? Các ngài đều là chuyên tu chuyên hoằng Tịnh Độ, còn ta thì ngược lại xem thường; tri kiến như vậy, có thể nói là chính xác chăng?