Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 13)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 13)
Chúng ta giảng đến căn bản của tu học, tức là làm thế nào để thật sự có được tâm thành kính, đối với đúng-sai, tà-chánh, thiện-ác phải có sự phân biệt thật rõ ràng. Sự việc này vốn dĩ là không dễ dàng. Vào thời xưa nền tảng giáo dục rất tốt, tuy thời cổ đại trường học hoàn toàn không phổ cập, nhưng bậc làm cha mẹ đều biết dạy bảo con cái với tinh thần trách nhiệm khác với người hiện đại. Người xưa thông thường đều vô cùng coi trọng giáo dục, phong khí xã hội đôn hậu, khái niệm luân lý đạo đức tồn tại phổ biến. Những lời chỉ dạy của bậc Thánh hiền vào thời xưa, chúng ta có thể nhìn thấy trong “Ngũ Chủng Di Quy”, hiện nay trong “Lễ Ký Thanh Hoa Lục”, chúng ta cũng có thể nhìn thấy những lời dạy này. Từ thời Dân Quốc đến nay, đường lối giáo dục của người xưa bị phủ định, xã hội phổ biến tiếp nhận quan niệm của người phương Tây. Người phương Tây là người chủ nghĩa công lợi, đối với luân lý đạo đức họ nhận thức không rõ ràng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến xã hội. Thế hệ trẻ từ nhỏ không có người dạy, không có người giảng, xã hội không chú trọng, cũng không đề xướng luân lý đạo đức. Chúng ta với tập khí phiền não sâu dày ở bên trong từ vô thỉ kiếp đến nay, bên ngoài ngũ dục lục trần cám dỗ thì

 

Chúng ta giảng đến căn bản của tu học, tức là làm thế nào để thật sự có được tâm thành kính, đối với đúng-sai, tà-chánh, thiện-ác phải có sự phân biệt thật rõ ràng. Sự việc này vốn dĩ là không dễ dàng. Vào thời xưa nền tảng giáo dục rất tốt, tuy thời cổ đại trường học hoàn toàn không phổ cập, nhưng bậc làm cha mẹ đều biết dạy bảo con cái với tinh thần trách nhiệm khác với người hiện đại. Người xưa thông thường đều vô cùng coi trọng giáo dục, phong khí xã hội đôn hậu, khái niệm luân lý đạo đức tồn tại phổ biến. Những lời chỉ dạy của bậc Thánh hiền vào thời xưa, chúng ta có thể nhìn thấy trong “Ngũ Chủng Di Quy”, hiện nay trong “Lễ Ký Thanh Hoa Lục”, chúng ta cũng có thể nhìn thấy những lời dạy này.

Từ thời Dân Quốc đến nay, đường lối giáo dục của người xưa bị phủ định, xã hội phổ biến tiếp nhận quan niệm của người phương Tây. Người phương Tây là người chủ nghĩa công lợi, đối với luân lý đạo đức họ nhận thức không rõ ràng. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến xã hội. Thế hệ trẻ từ nhỏ không có người dạy, không có người giảng, xã hội không chú trọng, cũng không đề xướng luân lý đạo đức. Chúng ta với tập khí phiền não sâu dày ở bên trong từ vô thỉ kiếp đến nay, bên ngoài ngũ dục lục trần cám dỗ thì sao có thể không động tâm, sao có thể không khởi ý niệm? Trong hoàn cảnh này, người mà thật sự không khởi tâm, không động niệm thì đó không phải phàm phu, người này chắc chắn là Phật Bồ Tát tái lai. Nếu như là phàm phu thì không thể làm được. Sự việc này chỉ có số ít các tiên sinh cao niên đọc sách cổ thỉnh thoảng vẫn đàm đạo. Trong cửa Phật, lão hòa thượng giảng kinh thuyết pháp, thỉnh thoảng cũng nhắc đến một chút, còn từ nay về sau thì rất khó nói. Do đây chúng ta mới thật sự thể hội được, tại sao pháp vận của Thế Tôn có ba giai đoạn. Trong ba giai đoạn, giai đoạn sau không bằng giai đoạn trước, tình hình ngày một tệ dần. Nguyên nhân này, nhìn chung chúng ta đã hiểu rõ, thiện pháp không có người chỉ dạy. Thực tế có phải không có người dạy phải không? Thực tế là không có người chịu nghe, không có người chịu học, không có người chịu tiếp nhận! Cho nên chư Phật Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh nhất định phải dùng loại cách thức khác. Loại cách thức này là trí tuệ cao độ tột bực, vả lại là độ khó cao thì hiệu quả cũng không lớn. Đây chính là “Lợi hành”, “Đồng sự” trong “tứ nhiếp pháp”. Các Ngài thật sự là từ bi đến cực điểm. Sự nghiệp mà chúng ta làm ngày nay chính là kế thừa đường lối này, kế thừa hệ thống tư tưởng này, quên mình vì người. Đây là theo quan niệm người thông thường của thế gian mà nói, là tự mình phải hy sinh to lớn, xa lìa danh vọng lợi dưỡng, xa lìa ngũ dục lục trần. Tại sao vậy? Để cầu hạnh phúc cho tất cả chúng sanh.

Mấy năm nay, chúng tôi ở các nơi giảng kinh thuyết pháp, đem tổng đề mục chọn lấy hai câu của các thầy giáo trường đại học Bắc Kinh, đó là: “Học vi nhân sư, hành vi thế phạm”. Hai câu nói này quả thật đúng là tâm Bồ Tát, hạnh Bồ Tát. “Sư” là chuẩn mực, “phạm” là tấm gương tốt. Chúng ta khởi tâm động niệm, lời nói việc làm có thể làm tấm gương tốt cho người thế gian hiện đại hay không? Nếu vì người khác làm tấm gương tốt, thì tự mình nhất định phải tuân thủ luân lý đạo đức, phải tuân thủ lời giáo huấn thánh hiền. Cho nên kinh phải đọc kỹ, lý phải nghiền ngẫm thật sâu, sau đó phải đem lời giáo huấn của thánh hiền thực hiện.

Người thế gian có thể sống đời sống sung túc, có thể hưởng thụ cái mà họ gọi là lạc thú. Hậu quả của lạc thú này là gì, họ có nghĩ đến hay không? Họ không hề nghĩ đến, nhưng chúng ta nghĩ đến. Nếu như loại hưởng thụ này không thể thoát khỏi lục đạo luân hồi thì các vị nên biết, cái hưởng thụ này là ngắn ngủi, tạm bợ. Trong kinh Phật có ví dụ là “nếm mật trên lưỡi dao”, là việc không đáng. Cho nên chư Phật Bồ Tát vì chúng ta thị hiện đều là thị hiện khổ hạnh, rất có đạo lý. Mục đích của thị hiện khổ hạnh, xin thưa với quí vị là vì chúng sanh thời kỳ Mạt Pháp. Phật ở thời kỳ Chánh Pháp làm tấm gương tốt cho chúng sanh thời kỳ Mạt Pháp, nói cho chúng ta biết, chỉ có trải qua loại đời sống này, loại hành trì này thì đức hạnh của chúng ta mới có thể giữ vững được.

“Dục” không được phép phóng túng. Người xưa nói, tình dục sinh khởi ra từ chỗ cực nhỏ, vừa mới sinh ra thì dễ dàng khống chế. Tổ sư đại đức của Tịnh tông dạy cho chúng ta, một niệm “A Di Đà Phật” là có thể trừ sạch cái ý niệm vi tế này, phải biết lợi hại, được mất. Điều này tôi thường hay nói với các đồng tu, chúng ta từ vô lượng kiếp trôi lăn trong sanh tử, không có ngày ra, khổ không thể tả. Đời này gặp được Phật pháp, gặp được pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thù thắng nhất ở trong Phật pháp. Đây chính là nói rõ, ngay trong đời này có cơ hội thoát khỏi sáu cõi luân hồi, có cơ hội thoát khỏi mười pháp giới. Cơ hội này gặp được không phải dễ. Sau khi gặp được rồi, chúng ta có thể thoát khỏi hay không, mấu chốt là ở trong khoảng một niệm. Một niệm này phải giữ vững, niệm niệm giác ngộ. Tại sao dạy bạn niệm Phật? Niệm Phật chính là giữ vững niệm niệm giác ngộ. Người niệm Phật thì nhiều mà người thành tựu rốt cuộc là rất ít. Tại sao đa số người không thể thành tựu vậy? Họ không biết lợi hại; lợi hại, được mất họ không hiểu rõ ràng, cho nên ý niệm của họ vẫn bị trói buộc trong ngũ dục lục trần, không thể buông xả triệt để. Vậy là đã bỏ lỡ cơ hội trong đời này, thật vô cùng đáng tiếc. Tại sao hằng ngày phải đọc kinh, hằng ngày phải giảng kinh? Trên thực tế, đạo lý rất đơn giản, chính là sợ chúng ta quên mất, chính là sợ chúng ta nhất thời lơ là, lại làm sai sự việc.

Lớp bồi dưỡng của chúng ta số người không nhiều. Chúng ta kế thừa sứ mệnh của chư Phật Bồ Tát, đem đạo lý, chân tướng sự thật này giới thiệu cho tất cả đại chúng. Nếu chúng ta muốn giúp đỡ người khác, trước tiên tự mình phải hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch, hiểu thấu triệt thì mới có năng lực giúp đỡ người khác. Sự việc này nhà Phật thường nói, đây là “công đức vô lượng”. Nếu như bản thân chúng ta không hiểu rõ, không thấu triệt thì làm sao có thể giúp đỡ người khác? Hằng ngày giảng, hằng ngày nghiên cứu thảo luận còn đè không nổi phiền não của mình, vậy mới biết tập khí phiền não của mình là sâu nặng cỡ nào. Vào lúc này chúng ta phải làm thế nào? Nỗ lực, bền bỉ không ngừng hơn nữa. Đồng tu lớp bồi dưỡng của chúng ta, cái duyên này thù thắng hơn quá nhiều so với người học Phật thông thường. Chúng ta mỗi ngày đều đang rất chăm chỉ, nỗ lực làm. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên rất phát tâm. Dương Thổ Cảng, đạo tràng này, họ chưa tìm được chỗ xây trường học, hiện nay vẫn không thể di dời, chúng ta nhất thời không thể sử dụng. Họ nóng lòng, lớp bồi dưỡng khóa thứ năm nhất định phải làm. Hôm qua họ nói với tôi, đã thuê được lầu hai của nhà thờ tộc Đỗ, đối diện với văn phòng chúng ta. Hôm qua tôi đi xem, tôi thấy địa điểm rất tốt, rất lý tưởng. Tiền thuê mỗi tháng là 2.600 đồng, không đắt lắm, lại ở đối diện với chúng ta thì việc trông nom vô cùng thuận tiện. Khóa thứ năm chúng ta có thể nhận 30 học sinh. Từ nay về sau, học sinh Trung Quốc đến bên này để tham gia lớp bồi dưỡng, hết thảy đều do Hiệp hội Phật giáo Bắc Kinh chỉ định, chúng ta không chiêu sinh. Tân học sinh đến rồi thì chúng ta nghiên cứu thảo luận, nhất định phải tăng cường, thời gian cũng phải dài, toàn tâm toàn lực làm tốt sự việc này.

Vấn đề dạy học như thế nào? Tôi muốn các đồng tu hãy cùng nhau nghiên cứu thảo luận. Chúng ta áp dụng chế độ phụ đạo, các đồng tu lớp Hoa Nghiêm, mỗi một vị đồng tu phụ đạo cho hai đồng tu mới vào học. Địa điểm luyện tập giảng kinh không đủ thì chúng ta phải tìm chỗ khác. Tìm nhiều thêm những địa điểm giảng kinh, chia ra để thực tập. Hy vọng trong thời gian ngắn có thể thu được hiệu quả.

Chúng tôi truyền thụ kỹ thuật diễn thuyết. Điều mà tôi gợi ý cho các vị đồng tu, đó là đức hạnh còn quan trọng hơn kỹ thuật. Năm xưa, trong yếu lĩnh tu học “Nội điển” tôi đã nói, đức hạnh chiếm chín mươi phần trăm (90%), kỹ thuật chiếm tối đa không quá mười phần trăm (10%). Tu dưỡng đức hạnh nhất định phải dựa vào chính mình. Sự việc này người khác không giúp gì được, còn những kỹ xảo này thì người khác có thể giúp bạn. Việc tu dưỡng đức hạnh của mình, ở trong kinh luận đã nói quá nhiều rồi. Mọi người hiện nay đều đọc kinh Vô Lượng Thọ, trong kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối, mỗi phẩm đều có nói đến, nói nhiều nhất và cụ thể nhất là từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy.

Những lời giáo huấn này trong Phật pháp gọi là pháp “Hành”. Phật pháp có bốn loại lớn là “Giáo – Lý – Hành –­­­ Quả”. Đây là pháp hành (phương pháp tu hành). Pháp hành nhất định phải thực hiện, nếu như không thực hiện thì đó là nói suông rồi, không thực hiện thì nhất định không có được thọ dụng. Chỉ có sau khi thực hiện, bạn mới có thể được lợi ích chân thật của Phật pháp. Đó là “Quả”. Cho nên “Giáo – Lý – Hành – Quả”, tuy nói là bốn sự việc, nhưng trên thực tế là một – một mà bốn, bốn mà một.

Cảm Ứng Thiên, câu dưới đây dạy chúng ta “Tích lũy công đức”. Trong tiểu chú, câu nói đầu tiên giải thích cho chúng ta, sao gọi là “đức”, sao gọi là “công”? Giữ tâm là “đức”. Thực hiện vào trong sự tướng, đây gọi là “công”. Cho nên, “đức” không tích lại thì không dày; “công” không bồi thì không lớn. Chúng ta thấy, chư Phật Bồ Tát vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp, những điều mà các Ngài làm, chỉ bốn chữ này là đã bao gồm hết rồi. Việc mà các Ngài làm chính là “Tích lũy công đức”. Vì ai tích công, vì ai bồi đức? Vì tất cả chúng sanh, không vì bản thân, vậy mới đích thực là đại công đại đức.

Chúng ta cần noi theo chư Phật Bồ Tát. Chư Phật Bồ Tát tại sao phải làm như vậy? Các Ngài hiểu rõ chân tướng sự thật, hư không pháp giới tất cả chúng sanh là chính mình, cho nên họ mới làm. Chúng ta không biết chân tướng sự thật, nên mới có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; chỉ lo cho bản thân, không quan tâm đại chúng; luôn cho rằng bản thân với đại chúng là hai việc khác nhau; chỉ biết lợi mình, không biết lợi người; không biết được rằng, lợi người là chân thật lợi mình. Lợi mình, thực tế chính là tự hại, chỉ có lợi người mới là lợi mình. Cái hại của lợi mình chính là lục đạo luân hồi, chính là tam đồ ác đạo.

Trong bộ Cảm Ứng Thiên Hội Biên này, nội dung vô cùng phong phú. Những chú giải dẫn chứng cho bản này cũng đã trải qua hàng mấy đời không ngừng gia tăng. Ngày nay chúng ta thấy bản này là bản tương đối hoàn thiện. Chúng ta nên đọc nhiều, suy nghĩ nhiều và cần cố gắng nỗ lực học tập. Học Phật, học Bồ Tát là bắt đầu học từ chỗ này. Tâm của chúng ta có giống Bồ Tát hay không? Hành vi của chúng ta có giống Bồ Tát hay không? Phải thường xuyên nghĩ về điều này. Khởi tâm động niệm lập tức liền biết, cái ý niệm này của ta, Phật Bồ Tát có cho phép hay không; lời nói này, ta có nên nói hay không; sự việc này, ta có nên làm hay không. Đây là tiêu chuẩn. Cảm Ứng Thiên Hội Biên là tiêu chuẩn thấp nhất. Học Phật là bắt đầu học từ chỗ này. Tổ sư Ấn Quang cả đời cật lực đề xướng Cảm Ứng Thiên, đạo lý là ở chỗ này.

Trong Cảm Ứng Thiên Hội Biên, phần chú giải về “Tích lũy công đức” có mấy câu rất quan trọng, người người đều ưa thích làm việc tốt, đều mong đợi mình ở ngay trong đời này lập nên công tích, đạt được thành tựu, nhưng luôn luôn đều do tự mình lề mề cẩu thả, không thể hăng hái nên đọa lạc thôi. Cho nên, chỗ này Phật dạy chúng ta, bất luận làm việc gì, nhất định phải đặt ra một kỳ hạn và nhất định phải hoàn thành trong kỳ hạn này, làm như vậy mới có tiến bộ. Thí dụ đọc sách, bộ sách này ta phải dùng bao nhiêu thời gian để đọc xong nó, như vậy mới thu được hiệu quả. Nếu như là thời gian dài vô hạn thì nhân tâm bị phân tán rồi, tinh thần ý chí sẽ không thể tập trung. Vì vậy có rất nhiều người thất bại là do nguyên nhân này. Cho nên, chúng ta học thì phải có học kỳ, phải có thời hạn. Chúng ta đến trường đi học cũng là như vậy. Bạn học đại học, thời hạn là bốn năm bạn phải học xong nó, vậy mới có thể tốt nghiệp. Tất cả việc thế xuất thế gian đều phải lập ra một kỳ hạn và phải hoàn thành đúng thời hạn. “Tích lũy công đức” cũng là như thế. Mỗi ngày có thể làm một việc thiện, ba năm thì có thể hoàn thành 1.000 việc thiện. Đây gọi là “Ngày làm một việc thiện”. Nếu như có thể tinh tấn nỗ lực, hy vọng mỗi ngày làm những việc thiện nhiều thêm. Như tiên sinh Liễu Phàm, mới bắt đầu phát nguyện làm 3.000 việc thiện, mười năm mới hoàn thành. Lần thứ hai phát nguyện làm 3.000 việc thiện, thì ba năm đã hoàn thành rồi. Đây chính là “nhất định phải có một thời hạn”.

Trong Phật pháp, pháp môn niệm Phật là định kỳ cầu chứng. Trong kinh nêu ra ví dụ cho chúng ta, nếu một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Kinh Đại Thừa thường hay nói 10 ngày, 100 ngày (100 ngày tức là ba tháng), như vậy mới thấy được hiệu quả rõ rệt. Tịnh Độ, các vị thường hay nghe thấy pháp sự Phật thất có bảy ngày, trên thực tế Phật trong kinh nói bảy ngày, tức là bảy ngày bảy đêm. Hiện nay chúng ta niệm Phật bảy ngày, vẫn cứ cảm giác thấy vô cùng phân tâm. Nguyên nhân là chưa có làm được thật hoàn toàn trong bảy ngày, bảy đêm. Bảy ngày bảy đêm chuyên tâm nhất trí, nhất định sẽ có cảm ứng, sẽ có thành tựu. Phải thật sự buông xả vạn duyên thì công phu mới có thể đắc lực. Hơi có một chút xen tạp là công phu không đắc lực rồi.

Hôm nay thầy Chứng Dương đã hỏi một vấn đề, vì sao ở trong niệm Phật đường công phu không đắc lực? Thầy chưa có soi lại thật kỹ nguyên nhân tại sao không đắc lực. Đại bộ phận đều là xen tạp, lại còn nghi hoặc nữa. Hiện nay bởi vì giảng đường hằng ngày đều có giảng kinh, nên vấn đề nghi hoặc không lớn, nhưng vấn đề xen tạp lớn. Chỉ cần có một mảy may xen tạp, trong tâm chưa có buông xả thì liền có rất nhiều chướng ngại, chúng ta gọi là ma chướng, ma chướng hiện tiền. Buông xả triệt để, ở trong niệm Phật đường bảy ngày bảy đêm, nếu như có thể làm giống như cách của Viên Liễu Phàm, không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, một câu Phật hiệu này bạn niệm đến cùng thì đâu có đạo lý nào công phu không đắc lực? Cho nên phải buông xả! Không buông xả thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi lớn. Cần phát tâm dũng mãnh, tâm tin tưởng, thật sự tinh tấn nỗ lực.

Trong đời sống thường ngày không nên keo kiệt, nên hoan hỷ bố thí. Bố thí chính là đem ý niệm keo kiệt này buông xả. Hoan hỷ bố thí, không nên sợ người khác chế giễu. Sợ người chế giễu là chúng ta đã hoài nghi rồi. Có một số người không hiểu rõ đạo lý này nên họ chế giễu, dạng chế giễu này là thuộc về hiểu lầm. Có một loại người thuộc về đố kỵ, họ cố ý đến chướng ngại, đến phá hoại. Bất luận dụng ý của họ là như thế nào, họ dùng cái tâm gì, chúng ta thảy đều không thèm đếm xỉa. Chỗ mà chúng ta căn cứ là kinh giáo, là lời giáo huấn của Phật Đà, y giáo phụng hành. Đến khi chúng ta thật sự có thành tích đem ra, thì những người này tự nhiên sẽ hổ thẹn thôi. Cho nên, tuyệt đối không sợ người khác chế giễu làm dao động tín tâm của chúng ta, mà càng phải nên hăng hái nỗ lực. Thật sự mà nói, trên đường Bồ Đề chướng ngại lớn nhất là tư dục, tự tư tự lợi, ái dục, thị hiếu không buông bỏ, đây mới là chướng ngại thật sự của chúng ta. Chúng ta phải thường xuyên phản tỉnh, chướng ngại này rốt cuộc ở chỗ nào? Sau khi tìm ra rồi phải triệt để buông bỏ nó, phải có tâm dũng mãnh để đối trị thì chúng ta trên đường Bồ Đề, chướng ngại sẽ giảm nhẹ thôi.

Trong kinh Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Cơ duyên gặp được Phật pháp tương đối không dễ dàng. Tự mình một mình không thể khắc phục phiền não của mình, cho nên đại đức xưa đề xướng cộng tu. Cộng tu là nương tựa vào đại chúng, dựa vào đại chúng để khích lệ mình, để cảnh tỉnh sách tấn mình. Đây là biện pháp tốt để đối trị, cho nên mới có đại chúng cùng tu chung với nhau.

Tịnh Tông Học Hội Boston, Úc châu, ngày 18, tháng 7 bắt đầu tổ chức mười Phật thất, tức 70 ngày. Phật thất 70 ngày này là chúng ta niệm Phật ngày đêm không gián đoạn, mỗi ngày 24 giờ niệm Phật, niệm như vậy trong 70 ngày. Gần đây họ đang tích cực chuẩn bị. Trong Phật thất, ngoài khu vực Úc châu còn có đồng tu niệm Phật các khu vực khác đến tham gia như, các đồng tu từ Singapore, Đài Loan, Hồng Kông, Mỹ Quốc. Chúng ta hoan nghênh chân thật phát tâm, buông xả tất cả, nỗ lực dụng công.

Trong chú giải có mấy câu: “Bất yếu không vi mỹ ngôn, nhi thực hành bất phó”. Hy vọng chúng ta đều có thể nói được, làm được, phải bền chí, phải trước sau như một. Có rất nhiều người mới đầu tu rất tốt, rất đạt tiêu chuẩn, nhưng thời gian lâu rồi bèn giải đãi, phóng túng. Chúng ta không tránh khỏi hiềm nghi, cũng không tránh khỏi bị oan, nhưng không bê trễ, không gián đoạn. Pháp thế xuất thế gian các vị đều phải biết, cái gọi là “việc tốt thường nhiều sóng gió”, đặc biệt là ngay thời đại này, thời kỳ Mạt Pháp. Chúng ta đọc thấy trong kinh điển, năm xưa Thế Tôn còn tại thế, vua Ma Ba Tuần đã nói với Phật rất rõ ràng, ma cố ý muốn phá hoại Phật pháp. Ma dùng phương pháp gì vậy? Trong thời kỳ Mạt Pháp, ma vương bảo ma con, ma cháu của họ đều xuất gia, khoát áo cà sa để phá hoại Phật pháp. Thế Tôn sau khi nghe xong lời nói này bèn rơi nước mắt, chẳng nói câu nào.

Cho nên, chúng ta ngày nay nếu chân thật dụng công, chân thật tu hành thì người chướng ngại rất nhiều, bao gồm người trong chính cửa Phật chúng ta. Người của ta là ai? Chúng ta biết, đó là con cháu của ma vương Ba Tuần, họ xuất gia không phải vì điều gì khác, chính là để phá hoại Phật pháp. Chúng ta trong tâm hiểu rõ, trong tâm sáng tỏ. Phật nói cho chúng ta biết, đối với những người này nên dùng thái độ gì? “Lặng lẽ, mặc kệ”, tức là không để ý. Chúng ta tự mình dụng công cho bản thân chúng ta, không để ý họ là tốt. Không bê trễ, không gián đoạn, không cầu danh, không cầu lợi, thành thật cũng không cầu quả báo. Phàm là gặp phải tất cả việc lợi ích xã hội, việc lợi ích chúng sanh thì chúng ta phải cố gắng nỗ lực làm, có khi còn phải chịu oan ức, uyển chuyển mà làm, phòng ngừa chướng ngại. Đại đức cận đại dạy chúng ta là “làm với thái độ hạ mình”. Tại sao một việc tốt, việc lợi ích xã hội, lợi ích chúng sanh vẫn phải làm với thái độ hạ mình? Là phòng ngừa một số người tật đố chướng ngại.

Gần đây, chúng tôi phát tâm giúp đỡ bên Úc châu thành lập một viện dưỡng lão, nhưng sự việc này làm không thành công. Nguyên nhân là vì người chướng ngại quá nhiều. Đây là do bản thân chúng tôi sơ ý. Nếu như lúc đó dùng thái độ hạ mình để làm, thì sự việc này đã làm viên mãn rồi. Điều này đã cho tôi một bài học rất tốt, cũng thật sự chứng thực “việc tốt thường nhiều sóng gió”. Chúng tôi có sự thể hội rất sâu, suy nghĩ thật kỹ lời giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, thật là quá uyên thâm. Câu chuyện kinh nghiệm chân thật, không thể không đọc, cần nên y giáo phụng hành, phải cố gắng mà học tập.

Vào thời xưa, dân gian chúng ta đều biết có người tên Đậu Yên Sơn “dạy năm con đều thành đạt” (trong “Tam Tự kinh” có câu chuyện này). Đậu Yên Sơn là người của thời Ngũ Đại, kết hôn nhiều năm mà không có con (đến lúc 30 tuổi ông cũng vẫn chưa có con). Điều này người xưa thường hay sinh phiền não. Có một hôm, ông nằm mộng thấy ông nội của ông nói với ông: “Trong mạng của con không có con, hơn nữa sẽ đoản mạng”, rồi bèn dạy ông: “Con nên tu thiện, phải tích đức, phải bồi công, cần tu tích công đức”. Sau khi nằm mộng thấy ông nội mình dạy như vậy thì ông vô cùng cố gắng nỗ lực tu tích công đức. Trong mạng ông không có con, về sau có được năm người con, đây là cầu được. Giống như Viên Liễu Phàm vậy, trong mạng của Viên Liễu Phàm không có con, về sau ông có được hai người con. Điều này đã chứng thực “hữu cầu tất ứng”. Đây mới là cầu được. Vì vậy “cầu” là phải dùng thiện tâm, thiện hạnh, phải dùng công đức chân thật làm vốn mà cầu. Bạn không có thiện tâm, thiện hạnh, không có công đức thì bạn lấy gì để cầu? Dứt khoát không phải ở trước Phật Bồ Tát hằng ngày quỳ lạy thắp mấy nén nhang, cúng một ít hoa thơm, trái cây là cầu được, không có dễ dàng như vậy. Nhất định phải nghiêm túc tu hành!

“Hữu cầu tất ứng”, đạo lý này là đạo lý nhân quả. Cái gọi là gieo nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo nhân ác nhất định có ác báo. Nhân duyên quả báo không mảy may sai chạy. Cho nên “Hữu cầu tất ứng”, đạo lý là như vậy. Phật pháp cũng không thể làm trái ngược đạo lý này. Phật chỉ dạy chúng ta cầu, đều là dạy chúng ta phát tâm Bồ Đề, chỉ dạy chúng ta đi làm công việc lợi ích tất cả chúng sanh, không nên đi làm những việc lợi ích cho riêng mình, như vậy mới là chân thật đoạn ác tu thiện. Lợi ích vì bản thân là việc bên ác. Lợi ích vì xã hội, vì chúng sanh, đó mới là việc bên thiện. Ý nghĩa của đoạn ác, tu thiện chúng ta mới có thể thể hội được. Có thể tổn mình, lợi người thì đây là đại thiện. Quả báo không cần cầu, tự nhiên cũng hiện tiền. Nhân thiện thì quả thiện. Nếu như hành vi tạo tác của chúng ta đối với xã hội, đối với chúng sanh là bất lợi, là có hại, đối với bản thân là có lợi, thì tuy trước mắt bạn có được một chút lợi ích nhỏ, nhưng tai nạn lớn đã ở phía sau. Tai nạn lớn nhất là sau khi chết sẽ nhận khổ báo trong tam đồ, chắc chắn không thể tránh khỏi.

Những đạo lý này, hiện nay người hiểu được càng ngày càng ít dần. Những chân tướng sự thật này, Phật ở trong kinh luận đã nói ra, nhưng người hiện đại mở quyển kinh ra xem, liền cười, cho đây là mê tín, họ không thể tiếp nhận. Đợi đến sau khi mình chết rồi đọa lạc tam đồ, đến lúc đó hối hận cũng không kịp nữa. Cho nên phải “tích lũy công đức”, bậc thánh hiền thế xuất thế gian đều dạy chúng ta như vậy, chúng ta nên tin tưởng. Người tin tưởng, người phụng hành là người có phước.

Tốt rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây.

A Di Đà Phật!

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (tập 13)

Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không

Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore

Thời gian: Năm 1999

Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: Phật tử Diệu Hương